top of page

TÌM HIỂU VỀ QUỸ TÍN THÁC VÌ MỤC ĐÍCH TỪ THIỆN VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM

Hiện nay, các hoạt động từ thiện đang được kêu gọi và thực hiện dưới vai trò cá nhân với số tiền quyên góp rất lớn, gây nên những tranh cãi về pháp lý và sự minh bạch của hoạt động này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một mô hình phù hợp để quản lý hoạt động từ thiện là một nhu cầu cần thiết với các nhà lập pháp. Tại các quốc gia phát triển, một trong những mô hình phổ biến được áp dụng để quản lý công tác thiện nguyện là quỹ tín thác vì mục đích từ thiện. Dù đây không còn là một mô hình mới ở các quốc gia này, thế nhưng tại Việt Nam chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về hoạt động này. Dù vậy, quỹ tín thác từ thiện rất có thể là câu trả lời thỏa đáng cho những vấn đề hiện hữu liên quan đến hoạt động từ thiện tại Việt Nam.

Sơ lược về hình thức tín thác tài sản

Tín thác, ở hầu hết các quốc gia có luật về tín thác, là một hình thức ủy thác tài sản hợp pháp. Tùy thuộc vào quy định, cũng như hình thức tín thác mà các cá nhân hay pháp nhân lựa chọn, tín thác có thể tồn tại trên hình thức một thỏa thuận giữa người gửi với ngân hàng có dịch vụ tín thác hay chủ thể khác được phép nhận ủy thác, hoặc tự thành lập một quỹ tín thác. Như vậy, có nhiều hình thức tín thác khác nhau, tuy nhiên, bài viết này sẽ đề cập chủ yếu đến tín thác với mục đích từ thiện.

Quan hệ tín thác là quan hệ chủ yếu giữa 3 bên: bên lập tín thác (settlor), bên nhận tín thác (trustee) và bên thụ hưởng tín thác. Quan hệ giữa bên lập tín thác, bên nhận tín thác và bên thụ hưởng là quan hệ tài sản; trong đó, bên nhận và quản lý tín thác chỉ có thể quản lý tài sản mà không thể hưởng lợi gì từ tài sản, còn bên lập tín thác thì một khi đã đưa tài sản vào tín thác thì không thể thay đổi đòi lại. Ngay khi lập tín thác, các quyền của người lập ra tín thác đối với tài sản không còn nữa mà hành vi này làm phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa người nhận tín thác và người hưởng lợi tín thác. Do nắm giữ quyền sở hữu tài sản về mặt pháp lý, bên nhận tín thác có tất cả các quyền của một chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản, bao gồm các quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt. Tuy nhiên, tất cả các quyền này đều bị hạn chế bởi những điều kiện được quy định tại văn bản xác lập quan hệ tín thác, đồng thời, việc thực hiện tất cả các quyền này đều chỉ phục vụ cho mục đích của tín thác chứ không phục vụ cho lợi ích cá nhân của bên nhận tín thác. Điều này dẫn đến hai hệ quả quan trọng:

Thứ nhất, tài sản tín thác được tách bạch khỏi tài sản cá nhân của bên nhận; do đó, trong trường hợp bên nhận gặp phải khó khăn tài chính, chủ nợ của bên nhận không thể tác động gì đến tài sản (ví dụ như thu giữ tài sản tín thác trong trường hợp bên nhận bị tuyên bố phá sản và phải thanh lý tài sản). Tài sản tín thác chỉ tồn tại cho bên thụ hưởng hoặc chỉ phục vụ vì mục đích của tín thác, chứ không liên quan đến chủ nợ của cá nhân bên nhận.

Thứ hai, bên thụ hưởng có quyền đối nhân đối với tài sản (yêu cầu các bên liên quan thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ tài sản tín thác đối với mình) và chỉ có bên thứ ba ngay tình mới được bảo vệ.

Sự cần thiết của các quỹ tín thác từ thiện tại Việt Nam

Đất nước ta hàng năm phải hứng chịu nhiều thiên tai với sức tàn phá lớn về cả con người và của cải. Với truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, các hoạt động từ thiện ngày càng phổ biến và hoạt động thường xuyên, đều đặn hơn để tương trợ cho những hoàn cảnh khó khăn. Những kênh từ thiện thường thấy là đóng góp cho cá nhân đứng ra kêu gọi, đóng góp cho công đoàn, đóng góp cho quỹ từ thiện do cá nhân lập nên. Như vậy, với các hình thức từ thiện như vậy, câu hỏi được đặt ra là tại sao lại cần thêm một hình thức từ thiện khác là hoạt động tín thác với mục đích từ thiện ở Việt Nam?

Về hoạt động từ thiện do cá nhân và công đoàn đứng ra kêu gọi. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các chủ thể không thể có nhiều hơn một sản nghiệp. Cụ thể, sản nghiệp được hiểu là tổng tài sản của thuộc quyền sở hữu của một cá nhân. Tất cả tài sản thuộc sở hữu cá nhân đó không thể được chia tách thành hai hay nhiều sản nghiệp phục vụ vào các mục đích khác. Như vậy, khi các khoản đóng góp được chuyển vào tài khoản cá nhân, thì sẽ trở thành một phần sản nghiệp của cá nhân nhận. Điều tương tự cũng áp dụng với sản nghiệp của cơ quan, doanh nghiệp. Hơn thế nữa, việc chuyển tiền đóng góp cho các chủ thể nói trên là một dạng hợp đồng tặng cho, và việc thực hiện từ thiện hoàn toàn dựa trên cơ sở niềm tin của người gửi cho. Những bất cập này dẫn đến bất lợi cho tất cả các bên. Thứ nhất, khả năng khối tài sản nói trên sẽ được sử dụng không đúng mục đích, trục lợi cá nhân. Thứ hai, các chủ thể nhận đóng góp gặp khó khăn khi họ phải giải trình và minh bạch các vấn đề liên quan đến các khoản đóng góp, do không có hệ thống kế toán và kiểm toán chuyên nghiệp. Thứ ba, người đóng góp có thể thay đổi ý định và đòi lại số tiền đã đóng góp, gây khó khăn cho người đã nhận.

Trong đó, hình thức quỹ từ thiện hiện nay tuy được kiểm soát, nhưng hiệu quả huy động đóng góp chưa được cao, bằng chứng là hiện nay, chưa có quỹ từ thiện nào có khả năng đứng ra kêu gọi mức quyên góp lớn như những người nổi tiếng hiện nay. Hơn nữa, tài sản đóng góp thành lập quỹ phải đạt mức tối thiểu theo quy định (Điều 14 Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019) hoặc đóng thuế (điểm (đ) khoản 2 Điều 8 Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019) có thể là một trở ngại lớn khiến các cá nhân ngần ngại không thành lập tổ chức từ thiện.

Việc cho phép hình thức thác vì mục đích từ thiện sẽ đem đến những lợi ích như sau.

Thứ nhất, sẽ có sự tách biệt trong sản nghiệp riêng của cá nhân, pháp nhân với sản nghiệp nhận được do đóng góp. Nhờ vậy, cá nhân, pháp nhân huy động đóng góp có thể đảm bảo sự toàn vẹn của tài sản đóng góp khỏi những rắc rối tài chính của bản thân, đồng thời tránh khỏi những phức tạp của nghĩa vụ giải trình do tín thác vận hành nguyên tắc được xác định trước.

Thứ hai, quỹ tín thác có trách nhiệm phải sử dụng tài sản được đóng góp theo đúng mục đích. Như đã nói, bên lập tín thác sẽ chuyển quyền sở hữu, định đoạt tài sản cho quỹ thông qua một hợp đồng, quy định rõ toàn bộ quyền và trách nhiệm của quỹ tín thác đối với tài sản đã nhận đó. Như vậy, những tài sản được quyên góp cho quỹ sẽ được sử dụng đúng với mục đích mà hai bên đã thỏa thuận.

Thứ ba, quỹ tín thác từ thiện có lợi thế hơn so với quỹ từ thiện vì cá nhân có thể đứng ra kêu gọi từ thiện dưới danh nghĩa cá nhân. Điều này tạo ra cơ hội cho những cá nhân có tiếng nói trong cộng đồng có thể vận động quyên góp,


Hành lang pháp lý nhằm quản lý hoạt động của quỹ tín thác

Hiện nay, những hoạt động về từ thiện ở Việt Nam mới được quy định trong nghị định Số 93/2019/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và chưa có văn bản pháp luật nào quy định về hoạt động từ thiện do cá nhân kêu gọi hay quỹ tín thác từ thiện. Với mong muốn hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động từ thiện, sau đây là những gợi ý để quản lý hoạt động của quỹ tín thác với mục đích từ thiện. Những đề xuất dưới đây được đưa ra dựa trên cơ sở so sánh quy định hiện hành tại các quốc gia đã cho phép hoạt động mô hình này, đồng thời có những phân tích để phù hợp áp dụng thực tiễn tại Việt Nam.

Đối tượng thụ hưởng của quỹ tín thác từ thiện

Tuy đối tượng thụ hưởng của mỗi quỹ tín thác được xác định là khác nhau, song cũng cần có những quy định chung cho những đối tượng này, để đảm bảo mục đích từ thiện. Tại Vương quốc Anh, để một quỹ từ thiện được phép hoạt động, những người sáng lập phải đề ra mục đích vận hành của quỹ thỏa mãn hai tiêu chí: hoạt động vì mục đích từ thiện (charitable purpose) và hướng tới lợi ích cộng đồng (public benefit). Cụ thể, mục đích từ thiện được pháp luật quy định bao gồm nhưng không giới hạn: xóa đói giảm nghèo, khuyến học, cải thiện sức khỏe,... [1] Ngoài ra, trong đạo luật về từ thiện ở Vương quốc Anh cũng đã tạo ra lối mở cho những nhà sáng lập quỹ khi đưa ra thêm quy định chung về những hình thức khác ngoài những hình thức được liệt kê trên, ví dụ như “hoạt động cung cấp hoặc hỗ trợ cung cấp các cơ sở vật chất cho mục đích giải trí nếu như cơ sở vật chất đó được cung cấp vì lợi ích chung của xã hội.” [2]. Việc có cả quy định chung và riêng như vậy là để quy định rõ ràng mục đích hợp pháp và đúng đắn của các quỹ tín thác từ thiện, bởi đây là một trong hai điều kiện để một quỹ tín thác được phép hoạt động. nhưng đồng thời cũng cho phép những nhà sáng lập quỹ có những hình thức hỗ trợ khác phù hợp với sự phát triển và thay đổi của xã hội, miễn là đảm bảo tính đúng đắn của mục đích từ thiện.

Quy định về hướng tới lợi ích cộng đồng hiện nay chưa được quy định trong cụ thể. Tuy nhiên, cũng có một số nguồn định nghĩa về khái niệm này. Theo phán quyết của thẩm phán Wrenbury [3]: Để xác định liệu một món quà có phải là một khoản từ thiện hợp lệ để tránh bị vô hiệu vĩnh viễn hay không, phải kiểm tra trước hết là liệu nó có hướng tới lợi ích cộng đồng hay không - là vì lợi ích của cộng đồng hay của một tầng lớp đáng kể trong cộng đồng. Ví dụ, cư dân của một giáo xứ hoặc thị trấn, hoặc bất kỳ tầng lớp cụ thể nào của những cư dân đó, có thể là đối tượng thụ hưởng, nhưng các cá nhân thì không. Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất rằng, hướng tới lợi ích cộng đồng yêu cầu quỹ phải hướng tới lợi ích của một số đông, chứ không phải cá nhân. Điều này phù hợp với sự công bằng, khi trao cho những người có hoàn cảnh khó khăn cơ hội để cải thiện cuộc sống, chứ không tập trung vào cá nhân.

Nghị định 93/2019/NĐ-CP, đang quy định rất chung về mục đích từ thiện. Trong khi đó, khi xã hội ngày càng phát triển, những hoạt động từ thiện đang ngày càng được mở rộng với nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, quy định chi tiết hơn về các mục đích hợp pháp của quỹ từ thiện là bước khởi đầu hợp lý. Mục đích của việc này trước mắt là quản lý tốt hơn hoạt động từ thiện, và tạo nền móng cho việc hợp pháp tín thác vì mục đích từ thiện. Các quy định về mục đích từ thiện có thể chia thành các nhóm như: xóa đói giảm nghèo, khuyến học, hỗ trợ khắc phục thiệt hại do thiên tai và môi trường, bảo tồn đa dạng văn hóa dân tộc,... Những hạng mục đã nêu là những mục đích từ thiện chủ yếu hiện nay.

Quy trình vận hành quỹ tín thác từ thiện

Như đã nói, mối quan hệ về tài sản trong tín thác chủ yếu xoay quanh ba bên. Tuy nhiên, trong các quỹ tín thác vì mục đích từ thiện, để đảm bảo các quỹ vận hành đúng với những mục đích và quy trình định sẵn, cần có thêm sự tham gia của một số chủ thể. Ví dụ, tại Nhật Bản, các quỹ tín thác từ thiện thường là những pháp nhân, được điều hành bởi Hội đồng quản lý tín thác (Administrative Board/Management Committee) có vai trò đưa ra những tư vấn về đối tượng thụ hưởng cho quỹ. Một thiết chế không thể thiếu đó là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không chỉ cho phép và phê duyệt sự thành lập của quỹ, mà còn chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động của quỹ thực hiện có đúng với mục đích từ thiện và vì lợi ích cộng đồng hay không. Cụ thể, các quỹ phải nộp lại báo cáo về các giao dịch trong vòng ba năm sau khi kết thúc một năm hoạt động. Ngoài ra, còn có một chủ thể nữa đó là người quản lý quỹ, đóng vai trò là người giám sát quỹ tín thác từ thiện thay mặt cho công chúng. Luật pháp về tín thác của Nhật Bản yêu cầu đây là chủ thể bắt buộc cần có trong quản lý quỹ tín thác từ thiện. [4]

Tại Anh, ngoài những chủ thể quản lý nói trên như ở Nhật Bản, các quỹ từ thiện còn chịu sự quản lý của Ủy ban Từ thiện. Ủy ban này có quyền đưa ra một cuộc điều tra về một quỹ từ thiện [5], và nếu có dấu hiệu thỏa mãn rằng tại quỹ có sự quản lý yếu kém, họ được phép đình chỉ quỹ ủy thác hoặc cá nhân làm việc trong quỹ từ thiện sau đó bổ nhiệm người được ủy thác bổ sung; trao tài sản từ thiện cho Official Custodian; ra lệnh cho thành viên quỹ tín thác đang mắc nợ hoặc những người đang nắm giữ tài sản từ thiện không được chuyển nhượng mà không có sự cho phép của họ. Họ cũng có thể loại bỏ người được ủy thác với lý do phá sản, mất năng lực hành vi,... Ủy ban cũng được ủy quyền chỉ định những người được tham gia quản lý quỹ tín thác mới để thay thế những người đã bị loại bỏ, hoặc tăng số lượng thành viên quản lý quỹ tín thác

Từ sự so sánh nói trên, có thể thấy rằng quy định Nhật Bản cho thấy rất ít sự can thiệp của các cơ quan nhà nước trong hoạt động quản lý quỹ tín thác từ thiện, trong khi tại Vương quốc Anh có sự kiểm soát khá chặt chẽ từ phía cơ quan nhà nước.

Một số quy định khác

Vì hoạt động tín thác (trust), đặc biệt là tín thác vì mục đích từ thiện huy động nguồn đóng góp dựa trên cơ sở niềm tin rất lớn, nên luật pháp cần có quy định về đối tượng thành lập quỹ và nằm trong hội đồng quản lý quỹ. Ví dụ, luật pháp tại Vương quốc Anh loại trừ những người từng bị kết án về tội liên quan đến không trung thực, phá sản, những người trước đây đã bị loại khỏi quyền ủy thác từ thiện và những người bị loại khỏi tư cách giám đốc của các công ty. [6] Điều này giúp các quỹ tín thác từ thiện xây dựng được niềm tin của người đóng góp, đồng thời cũng là lời cảnh báo cho những cá nhân có ý định trục lợi từ quỹ từ thiện. Việc xây dựng quy định này tại Việt Nam cũng rất cần thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay, những khoản kêu gọi từ thiện được kêu gọi thông qua các cá nhân thường có giá trị rất lớn, không được công khai minh bạch và không được sự quản lý bởi cơ quan có thẩm quyền.

Tại Vương quốc Anh, quỹ từ thiện hoạt động còn có thể có sự tham gia của Bộ trưởng Tư pháp. Cụ thể, Bộ trưởng Tư pháp đại diện cho tất cả những người thụ hưởng theo quy chế “parens patriae” - quy định cho phép nhà nước có quyền can thiệp vào các mối quan hệ với tư cách như cha mẹ của những người yếu thế cần sự giúp đỡ. Như vậy, trong trường hợp người thụ hưởng có xảy ra tranh chấp với bên nhận tín thác, sẽ luôn có Bộ trưởng Tư pháp đại diện cho họ chống lại bên nhận tín thác tại Tòa án. Đây là một quy định giúp bảo vệ bên yếu thế trong mối quan hệ này, khi họ thường chỉ có khả năng nhận giúp đỡ mà không có quyền lên tiếng khi xảy ra tranh chấp với quỹ từ thiện.


Tổng kết

Cùng với nhu cầu đóng góp từ thiện hiện nay là rất lớn, việc có thêm những quy định cần thiết cho hoạt động từ thiện là bước đi cần thiết để đảm bảo mục đích đúng đắn của quỹ từ thiện. Từ việc tham khảo từ các quốc gia đã có kinh nghiệm triển khai và quản lý những quỹ từ thiện, có thể thấy quỹ tín thác từ thiện là một giải pháp hợp lý để giải quyết những vấn đề về từ thiện hiện nay ở Việt Nam. Do đó, cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể về hoạt động tín thác vì mục đích từ thiện ở Việt Nam, nhằm đáp ứng những yêu cầu của xã hội.

Hoàng Nhi

Ảnh: Hà Trương

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Section 2, 3 - The Charities Act 2011 of the United Kingdom.

[2] Section 5 - The Charities Act 2011 of the United Kingdom.

[3] Verge v Sommerville [1924] AC 650

[4] Charitable trust - Trust Companies Association of Japan

[5] Section 46 - The Charities Act 2011 of the United Kingdom.

[6] Section 178 - The Charities Act 2011 of the United Kingdom.


bottom of page